Nước |
Ví dụ |
Armenia |
Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP 2007:45) tuyên bố rằng 47% học sinh trung học có học thêm ngoài giờ, thường là từ 2 môn học trở lên và chiếm khoảng 30 - 35 giờ mỗi tuần. |
Azerbaijian |
Silova và Kazimzade (2006) đã điều tra 913 sinh viên đại học năm thứ nhất về những trải nghiệm của họ vào năm cuối của trường trung học. Họ nhận thấy rằng 93% học sinh đã tham gia vào việc học thêm (dưới hình thức gia sư, hoặc các chương trình dự bị, hoặc cả hai). |
Bangladesh |
Nath (2011b) đã phân tích các dữ kiện trong các nghiên cứu hộ gia đình. Ông nhận thấy rằng, trong năm 2008, 37.9% học sinh tiểu học và 68.4% học sinh trung học có tham gia học thêm, ở khối lớp 10 tỷ lệ này là trên 80%. |
Brunei Darussalam |
Wong và cộng sự (2007:455) đã điều tra về cách thức học bộ môn toán học của học sinh tiểu học 6 tuổi. Với mẫu là 209 học sinh, 69% trong số đó có tham gia các bài học ngoài giờ, và phần lớn được cho rằng là do gia sư tiến hành. |
Campuchia |
Những kết quả khảo sát tại 77 trường tiểu học năm 1997 - 1998 cho thấy 31.2% học sinh có tham gia học thêm, tiêu tốn 6.6% chi phí cho giáo dục tiểu học (Bray 1999a:57). Một nghiên cứu theo sau đó vào năm 2004 đã cho thấy rằng chi phí này tăng lên đáng kể ở bậc trung học (Bray và Bunly 2005:42). Khi khảo sát 8 trường tiểu học tại 3 địa điểm, Dawson (2011:18), đã thấy rằng một nửa số học sinh có tham gia học thêm. Brehm và Silova (2012) đã trình bày các dữ kiện phản ánh những phát hiện này. |
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa |
Năm 2004, Khảo sát Giáo dục và nghề nghiệp hộ gia đình thành thị với 4.772 hộ gia đình đã cho thấy rằng 73.8% học sinh tiểu học có được dạy thêm những bài học ngoài chính khóa, bao gồm các môn học không hàn lâm. Tỷ lệ này ở trường trung học cơ sở và trung học phổ thông là 65.6% và 53.5% (Xue và Dinh 2009). Cuộc khảo sát vào năm 2010 với 6.474 học sinh tại Tế Nam cho thấy rằng 28.8% học sinh trung học cơ sở có học thêm môn toán, và 29.3% học thêm môn Tiếng Anh (Zhang 2011). |
Geogia |
Matiashvili và Kutateladze (2006) đã hỏi 839 sinh viên đại học năm nhất về những trải nghiệm của họ trong năm cuối cùng ở trường phổ thông. Họ thấy rằng 76% sinh viên đã từng theo học một khóa học thêm (những bài học riêng, các khóa học chuẩn bị cho kì thi đại học hoặc là cả hai). Một cuộc khảo sát vào năm 2011 của 1200 học sinh trung học và các học sinh đã tốt nghiệp ở mọi vùng cho thấy một phần tư số học sinh trung học đã từng học thêm, với 35% số học sinh ở vùng thành thị và 19% ở vùng nông thôn (EPPM 2011). |
Hồng Kông, Trung Quốc |
Một cuộc khảo sát qua điện thoại vào năm 2009 đối với 521 học sinh đã cho thấy rằng 72.5% học sinh bậc trên tiểu học có tham gia học thêm (Ngai và Cheung 2010); và một cuộc khảo sát đối với 898 học sinh trung học đã cho thấy 72.5% học sinh trung học cơ sở có tham gia học thêm, trong khi tỉ lệ này ở bậc trung trung học và trung học phổ thông là 81.9 và 85.5% theo thứ tự (Caritas 2010) |
Ấn Độ |
Sujatha và Rani (2011:113) đã báo cáo trong một cuộc khảo sát học sinh trung học phổ thông tại 4 bang: Andhra Pradesh, Kerala, Maharashtra và Uttar Pradesh: trong mẫu này, 58.8% học sinh khối 10 có tham gia học thêm. Sen (2010:315) đã tuyên bố rằng tại Tây Bengal, 57% số học sinh cấp tiểu học có tham gia học thêm. Dữ liệu từ một cuộc khảo sát vùng nông thôn toàn quốc đã cho thấy tỷ lệ ở khối lớp 4 đến lớp 8 dao động trong khoảng 2.8% ở Chhattisgarh tới 77.2% tại Tripura (Pratham 2011:58). |
Indonesia |
Suryadama và cộng sự (2006) lưu ý là có sự hiện diện trên diện rộng của dạy thêm tư nhân ở cấp tiểu học tuy không có số liệu đo lường cụ thể nào. Những bằng chứng không chính thức cho thấy rằng nó cũng phổ biến đối với cấp trung học. |
Nhật Bản |
Một cuộc khảo sát năm 2007 cho thấy rằng juku (tên gọi hệ thống giáo dục ngoài chính quy của Nhật) phục vụ 15.9% học sinh lớp 1 tiểu học, và tỷ lệ này tăng lên nhanh chóng ở các khối lớp cao hơn, và đạt tới 65.2% tại lớp thứ 3 cấp trung học cơ sở. Thêm vào đó, 6.8% học sinh năm thứ 3 trung học cơ sở có phụ đạo tại nhà, trong khi 15% theo học các khóa học hàm thụ (Japan 2008:13). |
Kazakhstan |
Kalikova và Rakhimzhanova (2009) đã hỏi 1.004 sinh viên đại học năm thứ nhất về các trải nghiệm của họ trong năm cuối tại trường trung học. 59,9% số sinh viên này đã từng học thêm (những bài học cá nhân, các khóa học chuẩn bị cho kì thi đại học hoặc là cả hai). |
Hàn Quốc |
Vào năm 2008, ước 87.9% học sinh tiểu học có học thêm. Tại trường trung học tỷ lệ này là 72.5%; và tại các trường trung học phổ thông tỷ lệ này là 60.5% (Kim 2010:302). |
Cộng hòa Kyrgyz |
Bagdasarova và Ivanov (2009) đã hỏi 1.100 sinh viên đại học năm thứ nhất về các trải nghiệm của họ trong năm cuối tại trường trung học. 52.5% số sinh viên này đã từng học thêm (những bài học cá nhân, các khóa học chuẩn bị cho kì thi đại học hoặc là cả 2). |
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào |
Benveniste và cộng sự (2008:76, 106) chỉ ra rằng 14% số giáo viên của trường trung học cơ sở có tham gia dạy thêm, và thu nhập từ dạy thêm chiếm một phần ba tổng thu nhập của họ. Một nghiên cứu khác đối với 2082 giáo viên tiểu học tại 449 trường cho thấy 4.7% trong số đó có dạy thêm thu phí (Dang et al. 2010). |
Malaysia |
Kenayathulla (2012) đã kiểm tra các dữ liệu từ cuộc khảo sát chi tiêu của hộ gia đình năm 2004/2005 và phát hiện rằng 20.1% số hộ gia đình cho thấy có chi tiêu cho việc học thêm. Tan (2011:105), sau khi khảo sát 1.600 học sinh tại tám trường học tại Selangor và Kuala Lumpur, đã phát hiện rằng 88% học sinh đã tham gia học thêm ở bậc tiểu học. |
Maldives |
Nazeer (2006) đã đặc biệt chú ý rằng việc dạy học thêm tư nhân “là hết sức phổ biến”. Tất cả 9 giáo viên tham gia nghiên cứu định tính của ông đã từng tham gia dạy thêm cho học sinh của chính mình. |
Mongolia |
Dong et al. (2006) đã hỏi 1.475 sinh viên đại học năm thứ nhất về các trải nghiệm của họ trong năm cuối tại trường trung học. 66% số sinh viên này đã từng học thêm (những bài học cá nhân, các khóa học chuẩn bị cho kì thi đại học hoặc là cả hai). |
Myanmar |
Một báo cáo vào năm 1992 (Cơ quan Nghiên cứu Giáo dục Myanmar 1992:24) đã mô tả dạy học thêm tư nhân như là “một điều không thể thiếu để hoàn thành giáo dục trung học”. Những bằng chứng không chính thức đã chỉ ra rằng hai thập niên sau, vấn đề này không hề mất đi. Dạy thêm cũng tồn tại rất nhiều ở cấp tiểu học. Một cuộc khảo sát chưa được công bố vào năm 2009 tại 25 thị trấn đã cho thấy rằng việc dạy học thêm tiêu tốn 12.6% chi phí của hộ gia đình đối với khối lớp 1 và 15.6% đối với khối lớp 5. |
Nepal |
Jayachandran (2008) đã kiểm tra dữ liệu từ 450 trường học tại 28 quận huyện. Bà thấy rằng 38% học sinh tại các trường công lập có tham gia học thêm tại trường, trong khi số liệu đối với các học sinh ở trường tư thục là 32%. Thêm vào đó các học sinh luôn tham gia học thêm với các giáo viên ngoài trường. Thapa (2011) đã báo cáo về dữ liệu từ 22.500 học sinh tại 452 trường học. Ông đã nhận thấy rằng 68% học sinh khối 10 có tham gia học thêm. |
Pakistan |
Dạy học thêm tư nhân là rất phổ biến tại các vùng đô thị (Mulji 2003) và cũng phổ biến ở các vùng nông thôn (ASER Pakistan 2011). Đối với các vùng nông thôn, một cuộc khảo sát năm 2010 đối với 19.006 hộ gia đình đac cho thấy rằng chỉ có 80% số trẻ em đến tuổi là được đi học. Trong số các em được đến trường, 14.3% trong số đó có tham gia học thêm (ASER Pakistan 2011:53) |
Philippines |
De Castro và de Guzman (201) đã khảo sát trên 1.235 học sinh tại 23 trường học. Họ nhận thấy rằng 40.7% số học sinh lớp 6 và 46.5% số học sinh lớp 10 là có tham gia học thêm |
Singapore |
Tan (2009) kêu ca về sự thiếu quan tâm đến việc thu thập dữ liệu kinh nghiệm về dạy thêm, nhưng lưu ý rằng hiện tượng này rất dễ thấy trong mấy chục năm, dẫn công trình của Kwan-Terry (1991) và George (1992). Một phóng sự trên báo năm 2008 tuyên bố có 97% học sinh tiểu học, THCS và THPT học thêm. |
Sri Lanka |
Pallegedara (2011:9) kiểm tra dữ liệu khảo sát 2006/07 của 11.628 hộ gia đình với 21.438 học sinh từ 6-21 tuổi. Trong các gia đình này, có 63.7% đã chi tiền cho việc học thêm. Con số này là 23.3% trong một khảo sát tương tự thực hiện vào năm 1995/1996. Suraweera (2011:20) đã báo cáo rằng 92.4% trong 2.578 học sinh lớp 10 và 98.0% trong 884 học sinh lớp 12 được khảo sát đã đi học thêm. |
Đài Bắc, Trung Quốc |
Khảo sát giáo dục được thực hiện ở Đài Bắc, Trung Quốc năm 2001 bao gồm 20.000 học sinh trung học và chỉ ra rằng có 72.9% học sinh lớp 7 đã đi học thêm với số thời gian học trung bình trong một tuần là 6.5 giờ. (Liu, 2012). |
Tajikistan |
Kidirov và Amonov (2009) hỏi 999 học sinh đại học năm thứ nhất về trải nghiệm của họ trong năm cuối ở trường phổ thông. Người ta phát hiện rằng 64.8% học sinh đã học thêm (các lớp học tư, các khóa ôn thi hoặc cả hai). |
Thái Lan |
Báo Dân tộc, tờ báo quốc gia của Thái Lan (Editorial 2011), lưu ý rằng thiếu số liệu thống kê chính thức nhưng cho rằng các trường luyện thi đã tăng nhanh và thu khoản học phí khoảng 7 tỉ bạt (233 triệu đô la). |
Turkmenistan |
Clement (2006, theo trích dẫn của Silova) chỉ ra rằng từ khi đất nước độc lập vào năm 1991 đã hình thành một hệ thống giáo dục trong bóng tối rộng lớn. Nó bao gồm các lớp không đăng kí ở nhà của giáo viên và ở những nơi khác và lôi cuốn đa số giáo viên tham gia. |
Uzbekistan |
Silova (2009a) không cung cấp được số ước nhưng chỉ ra rằng các mức độ dạy thêm có thể so sánh được với các nước khác ở Trung Á. |
Việt Nam |
Dang (2011b) đã xem xét lại dữ liệu khảo sát năm 2006 từ 9.189 hộ gia đình. Ông thấy rằng có 32% học sinh tiểu học có tham gia học thêm. Ở THCS và THPT tỉ lệ tương ứng lần lượt là 46.0% và 63.0%. |
Hộp 2: Một mối quan tâm lâu dài Những thách thức của việc dạy/ học thêm tư nhân được ghi nhận tại Sri Lanka hiện nay (trước đây là Ceylon) rất sớm ngay từ năm 1943. Một Ủy ban đặc biệt về Giáo dục đã chỉ trích đặc biệt gay gắt những trung tâm luyện thi hoạt động bên cạnh các trường học. Ủy ban cho rằng, những trung tâm, với kiểu tập trung luyện thi kiểu học vẹt, đang dần phá hỏng mục đích sâu rộng của giáo dục. Bản báo cáo chỉ ra rằng: Các bậc phụ huynh thường thuê các gia sư với lý giải duy nhất là họ sẽ giúp các em học sinh vượt qua các kì thi. Các cơ sở dạy thêm này đang rất thịnh hành, mặc dù chúng không hề có chút ý nghĩa giáo dục nào. Chúng tôi cực lực phản đối việc các phụ huynh thường xuyên bổ sung thêm việc học ở trường bằng học thêm cá nhân. Về lâu dài, nó sẽ hủy hoại mục đích của chính nó qua việc làm cho các em không thể sáng tạo và chủ động được nữa. Từ thời kỳ đó, các trung tâm dạy thêm và các hình thức dạy thêm khác đã đa dạng hơn rất nhiều. Những dấu hiệu cảnh báo vào năm 1943 không đủ mạnh mẽ để thay đổi đặc thù đang lên này. Ngược lại, giờ đây việc dạy học thêm đã ăn sâu bén rẽ vào văn hóa nước này. Nguồn: Báo cáo của Ủy ban đặc biệt về Giáo dục (1943), Sessional Paper XXIV, Colombo: Ceylon Government Press, trích dẫn bởi Suraweera (2011:9,17). |