Thực tế cho thấy, vẫn còn một bộ phận giáo viên còn nóng nảy, ứng xử thiếu thân thiện đối với học sinh, đồng nghiệp, chưa tạo được niềm tin yêu của học sinh. Vấn đề là những hành vi này chưa hẳn xuất phát từ việc trình độ chuyên môn, phương pháp giảng dạy hạn chế mà từ sự thiếu hụt về kĩ năng tương tác xã hội, quản lí cảm xúc, giải quyết xung đột… hay còn gọi là năng lực cảm xúc - xã hội. Khi giáo viên chưa có năng lực cảm xúc - xã hội và năng lực làm chủ mô hình Học tập cảm xúc - xã hội (Social – Emotional Learning, SEL) thì việc khai thác cũng như ứng dụng mô hình để giáo dục học sinh phát triển năng lực là việc khó khả thi.
CDIO là viết tắt của cụm từ: Concelve - Deslgn - Implement - Operate, nghĩa là: hình thành ý tưởng, thiết kế ý tưởng, thực hiện và vận hành, được Viện Công nghệ MIT (Hoa Kì) phát triển từ đầu thập niên 90 của thế kỉ trước.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực đang trở thành yếu tố quyết định, đặc biệt là đối với việc tăng lợi thế cạnh tranh cũng như sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia.
Bài báo của nhóm tác giả Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Thị Hương Giang, Nguyễn Khang, Viện Sư phạm Kĩ thuật - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội giới thiệu công cụ đánh giá mức độ phát triển theo mô hình đại học thông minh của một cơ sở giáo dục đại học, đồng thời minh chứng mức độ phát triển này dựa trên kết quả của quá trình chuyển đổi số trong quản trị và đào tạo tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội trong thời gian qua.
Sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải đẩy mạnh giáo dục đào tạo để có được một đội ngũ tri thức chất lượng, có đầy đủ những kĩ năng đáp ứng được yêu cầu của thời đại 4.0. Đó là một việc vô cùng cần thiết và cấp bách. Giáo dục STEM ra đời đã giúp giải quyết vấn đề cấp bách đó. Ở các nước phát triển, STEM rất được coi trọng và phát triển. Ở Việt Nam, STEM đã và đang được đẩy mạnh và được đưa vào chương trình giáo dục của các cấp học. Bài viết của tác giả Thái Văn Thành, Nguyễn Thị Nhị, Lê Thị Bình trình bày về mô hình quản lí giáo dục STEM của nhà trường phổ thông với việc tuân thủ các nội dung, chức năng của hoạt động quản lí giáo dục trong trường học.
Bài viết của tác giả Phạm Văn Hiếu, trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa-Vũng Tàu trình bày khái quát các mô hình lí luận dạy học và lí thuyết học tập cơ bản, trên cơ sở đó đề xuất nhóm các tiêu chí đánh giá chất lượng dạy học: Mục đích (mục tiêu), nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, không gian, thời gian, quan hệ thầy trò, kết quả. Căn cứ vào các tiêu chí đánh giá chất lượng dạy học đã trình bày ở trên, tác giả xây dựng tiêu chí đánh giá một tiết dạy (Phiếu dự giờ). Trong phiếu dự giờ có 7 nhóm tiêu chí với 15 tiêu chí cụ thể và có quy định điểm cho mỗi tiêu chí.
Bài viết của nhóm tác giả Phạm Thị Hoài Thu, Nguyễn Thị Bích Ngọc và Lê Huy Tùng trình bày tổng quan về hoạt động kiểm định chất lượng cấp chương trình đào tạo theo bộ tiêu chuẩn AUN-QA tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Sự gắn kết của sinh viên với nhà trường đóng vai trò quan trọng, tác động trực tiếp tạo ra các động lực, đem lại cảm giác thuộc về, thúc đẩy quá trình từ đó nâng cao kết quả học tập. Bài viết của nhóm tác giả Tăng Thị Thùy, Đỗ Linh Chi, Nguyễn Thị Ngọc Khánh, Dương Phương Thảo và Nguyễn Thị Kim Tranh, trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội trình bày 3 nhóm mức độ gắn kết: nhận thức, tình cảm, hành vi được nghiên cứu tại Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội với sự tham gia của 222 sinh viên.
Dạy học kết hợp đang ngày càng được chú trọng, quan tâm và phát triển trong các tổ chức giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học trước sự ảnh hưởng của COVID-19. Dạy học kết hợp bao gồm các buổi học trực tuyến và trực tiếp. Trong đó, các bài giảng trực tuyến cần được lập kế hoạch và chuẩn bị đầy đủ hơn so với các buổi học trực tiếp, từ xây dựng câu hỏi, cấu trúc bài giảng đến xem xét khả năng tương tác tới người học.
Giáo dục giá trị văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Với ý nghĩa đó, làm thế nào để giáo dục giá trị văn hóa một cách hiệu quả trong giai đoạn mới là một vấn đề được quan tâm. Bài viết của hai tác giả Đoàn Thị Thúy Hạnh và Võ Thanh Hà đề xuất một số giải pháp giáo dục giá trị văn hóa cho học sinh tiểu học khi thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 bao gồm: Giáo dục giá trị văn hóa trong một số môn học và hoạt động trải nghiệm; giáo dục thông qua một số chủ đề tích hợp liên môn; giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục khác…
Cách mạng công nghệ lần thứ tư đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế và phát triển nhân lực. Một loạt các công nghệ mới xuất hiện dựa trên nền tảng kết nối và công nghệ số và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực đòi hỏi sự chuyển đổi nhanh hơn bao giờ hết của các doanh nghiệp công nghệ thông tin. Nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Thanh Tùng và Trần Thị Thái Hà xem xét nhu cầu về nhân lực của các doanh nghiệp công nghệ thông tin và phân tích khả năng nắm bắt các cơ hội việc làm trong các doanh nghiệp này của sinh viên tốt nghiệp đại học.
Đại dịch COVID-19 đã tác động toàn diện và sâu sắc đến giáo dục Việt Nam. Để ứng phó với đại dịch, nhiều địa phương trên cả nước đã tổ chức dạy học trực tuyến liên tục trong thời gian dài. Trong tình huống này, giáo viên cũng phải thay đổi các hoạt động từ lập kế hoạch, tổ chức giảng dạy, đánh giá để thích ứng với môi trường dạy học trực tuyến. Nghiên cứu của nhóm tác giả Lê Anh Vinh, Đặng Thị Thu Huệ, Bùi Thị Diển, Vương Quốc Anh, Phùng Thị Thu Trang, Đỗ Đức Lân, Trần Thị Bích Ngân nhằm đánh giá thực trạng dạy học trực tuyến của giáo viên trên các phương diện từ điều kiện dạy học, thực tiễn triển khai đến đánh giá hiệu quả dạy học trực tuyến.
Mục lục Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam Tập 18, số 04 năm 2022