Tọa đàm Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2011-2020

15/07/2021 19:55 GMT+7
Tiếp nối các phiên thảo luận buổi sáng ngày 14/07/2021, GS.TS. Lê Anh Vinh điều hành phiên đầu tiên của buổi chiều. Phiên thứ tư của Hội thảo Giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 được mở đầu với báo cáo “Giáo dục đại học” của TS. Lê Đông Phương. Chủ đề này bao gồm bốn nội dung về tiếp cận/công bằng, chất lượng giáo dục đại học, khả năng tìm việc, chi phí và tài chính và các vấn đề liên quan quản lý.


GS. TS. Lê Anh Vinh chủ trì phiên thảo luận chủ đề Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2011-2020
  
Theo TS. Lê Đông Phương, quy mô giáo dục đại học không tăng nhưng bất bình đẳng vẫn còn lớn, một phần do kết nối từ khả năng tiếp cận thấp hơn đến giáo dục THPT của các nhóm dân thiểu số. Trong bảng xếp hạng đại học toàn cầu, Việt Nam đứng cuối danh sách. Bên cạnh đó, năng lực nghiên cứu và đổi mới của Việt Nam vẫn đứng cuối danh sách về hầu hết các chỉ số.
  
TS. Lê Đông Phương trình bày trực trạng giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2011-2020
 
Mặt khác, chương trình giảng dạy tồn tại một số vấn đề như thiếu một hệ thống Thông tin Thị trường Lao động (LMIS) thích hợp để theo dõi bước chuyển của sinh viên tốt nghiệp sang thị trường lao động cung cấp lại HEI với đánh giá của nhà tuyển dụng về năng lực của sinh viên tốt nghiệp, hay là sự đổi mới trong thực hành sư phạm còn hạn chế, mô hình giáo viên dẫn dắt truyền thống chủ yếu cung cấp kiến thức học thuật và kiến thức lý thuyết vẫn là thống trị. Chương trình giảng dạy đã được “quốc tế hóa” bằng cách nhập khẩu chương trình từ các trường đại học được xếp hạng trong 200 trường đại học hàng đầu trên thế giới, nhưng chi phí cao và yêu cầu thông thạo tiếng Anh đã là một rào cản cho việc mở rộng giáo dục đại học.
  
Tỷ lệ việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học cao hơn so với những người khác. Sinh viên tốt nghiệp đại học có xu hướng tìm một công việc phù hợp với trình độ của họ, thu nhập của họ cũng tăng theo trình độ học vấn nhưng mối quan hệ giữa phân bổ sinh viên theo ngành học và kết quả việc làm tương lai còn yếu. Bên cạnh đó, tài chính công cho giáo dục đại học bị hạn chế nhưng chi tiêu tư nhân đã tăng lên đáng kể. Với việc miễn giảm phí có giới hạn, có khả năng gây nguy hiểm cho việc tiếp cận những đối tượng yếu thế.
  
Về mặt quản lý, giáo dục đại học đang bị phân mảnh do nhiều cơ quan quản lý trực tiếp, thiếu kết nối các trường đại học và viện nghiên cứu công lập; không có hệ thống quản lý thông tin giáo dục đại học thống nhất (HEMIS) cung cấp bức tranh toàn cảnh về tiểu ngành.
  

GS. TS. Nguyễn Hữu Đức (bên trái), Nguyên Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, thảo luận cùng TS. Lê Đông Phương (bên phải)
  
Nhìn chung, phân hệ giáo dục đại học đã tăng trưởng đáng kể nhưng vẫn còn tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực, chất lượng giáo dục đại học và nghiên cứu chưa theo kịp các các nước trong khu vực, sinh viên tốt nghiệp đại học có xu hướng cho rằng công việc họ nhận được phù hợp với trình độ của họ, nhưng sự tham gia của khu vực tư nhân trong phân hệ vẫn còn hạn chế và thiếu cơ chế để cung cấp phản hồi cho các cơ sở giáo dục đại học về nhu cầu trình độ mới nổi.
  
Nguồn tài chính công cho giáo dục đại học dường như còn rất thấp so với các nước so sánh và gánh nặng do các gia đình phải gánh chịu với sự gia tăng đáng kể đóng góp của họ trong thập kỷ.
  
Bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục đại học vẫn còn là vấn đề và chính sách miễn học phí được áp dụng không đủ để giải quyết vấn đề, thậm chí ít hơn trong bối cảnh các cơ sở phụ thuộc ngày càng nhiều vào đóng góp của các hộ gia đình.
  
Các chuyên gia khách mời đều đánh giá cao những nhận định của TS. Lê Đông Phương, đồng thời trăn trở về xứ mệnh của giáo dục đại học Việt Nam trong đóng góp cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung.
  
Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam